6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

Được mệnh danh là kẻ gian hùng số 1 trong thiên hạ, thế nhưng từ xưa đến nay không ai có thể phủ nhận tài năng, mưu lược của Tào Tháo và những câu nói hay của ông vẫn còn giá trị đến ngày nay.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị
6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

1. “Tại sao lòng bàn chân lại trắng hơn tay và mặt”: Tào Tháo muốn nói rằng, đừng bao giờ phơi hết “ruột gan” của mình cho người khác cũng như để họ thấu hiểu rõ tâm can của mình. Và người thông minh là người phải biết giấu những điều cần giấu.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

2. “Không tin thì không dùng, đã dùng là phải tin”: Thời xưa, việc dùng người cũng giống như đánh cờ. Người chơi cờ có hiểu quân cờ của mình, nắm rõ ưu khuyết từng quân cờ mới có thể tự tin mà đi đúng đường, đánh đúng nước. Tuy nhiên trên thực tế, việc dùng người còn phức tạp hơn đánh cờ.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

Vì đánh cờ, người chơi cờ chỉ cần tự tin vào chính mình là đủ, còn dùng người, ta không chỉ tin vào mình, mà còn phải tin vào nhiều yếu tố khác nữa.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

Vốn nổi tiếng là một nhà chính trị – quân sự tài ba, đây chính là một trong những thuật dùng người giúp Tào Tháo thành công trong sự nghiệp của mình. Chọn đúng người, giao đúng việc và có lòng tin thì có thể quyết định kết quả thắng hay bại. Dù vậy, đặt trọn niềm tin vào người khác, quân lính hay nhân sự của mình thì không phải vị tướng hay nhà lãnh đạo nào cũng có thể làm được.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

3. “Thắng bại là chuyện bình thường của binh gia”: Câu nói này nhắc nhở các bạn đừng bao giờ ngủ quên trên chiến thắng và đừng chết bị thất bại. Hãy lấy thất bại để rút ra bài học cho bản thân để bước những bước khôn ngoan hơn. Đây là một trong những câu nói bất hủ của Tào Tháo cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

4. “Người không vì mình, trời tru đất diệt”: Phàm là chuyện gì cũng nên nghĩ cho bản thân trước, nếu mình không nghĩ cho bản thân mình thì sẽ bị kẻ khác hãm hại, lợi dụng.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

5. “Phàm những chuyện đại sự trong thiên hạ nên về nhà hỏi vợ, vợ bảo sao cứ làm ngược lại ắt sẽ thành công”: Tào Tháo là người làm nên cơ nghiệp lớn, gánh vác nhiều việc đại sự. Suốt hơn mấy chục năm Nam chinh Bắc chiến, ông không chỉ táo bạo, anh dũng trên chiến trường mà cũng đầy mưu lược, cẩn trọng và thâm sâu trên triều cương nên đã tiêu diệt tất cả các đối thủ.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

Đến cả tâm lý của người phụ nữ mà Tào Tháo cũng nắm rõ như lòng bàn tay. Phụ nữ luôn rất cảm tính, họ sống theo cảm xúc nhiều hơn lý trí. Thế nên, với chuyện nhà binh, càng đi ngược lại với cảm tính thì họ càng dễ chiến thắng.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

Bởi việc đầu tiên là họ đã vượt qua nỗi sợ hãi của con người để chiến đấu, thì chiến thắng sẽ là điều dễ nắm bắt hơn. Tào Tháo hiểu và vận dụng được điều này quả không hổ danh là “đại gian hùng” kiệt xuất.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

6. “Không được kích nộ sẽ làm giảm trí tuệ, không được oán hận sẽ giảm đi một nửa sức mạnh”: Ở đây, Tào Tháo muốn chú trọng vào cảm xúc của con người trong khi hành sự. Nếu không có cảm giác oán hận, tức giận thì nhiệt tâm cũng như trí tuệ cũng sẽ ngày một thờ ơ và chẳng quan tâm tới điều gì nữa.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

Điều này cũng đồng nghĩa với việc nếu không có oán hận thì sẽ chẳng còn cố gắng trau dồi thêm sức mạnh và sức mạnh chiến đấu sẽ giảm bớt.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

Khách quan mà nói, Tào Tháo là nhà lãnh đạo tài giỏi, chính trị gia lỗi lạc, nhà quân sự có tài. Ông luôn là người dám nói, dám làm. Vì thế, những câu nói hay của Tào Tháo luôn có giá trị giáo dục sâu sắc, tạo nên sự thành công và nổi tiếng của vị vua đa nghi Tào Tháo. Những câu nói của Tào Tháo luôn chứa đựng những đạo lý về cuộc sống sâu sắc mà mỗi chúng ta nên học tập và áp dụng để thành công hơn.

Tào Tháo sinh năm 155 và mất năm 220 (thọ 66 tuổi), tự là Mạnh Đức là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt cơ sở cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc và trở thành đối trọng lớn nhất với nhà Thục (do Lưu Bị đứng đầu) và nhà Ngô (do Tôn Quyền đứng đầu).

Trong thời gian 25 năm (196 – 220), Tào Tháo đã bình định hết các lộ chư hầu phương bắc, xây dựng chính quyền Tào Ngụy. Ngoài đóng góp về chính trị và quân sự, phải kể tới đóng góp trong khôi phục nông nghiệp thời loạn lạc của Tào Tháo.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị

Thời chiến loạn, nhiều chư hầu không nghĩ tới sự sống chết của nông dân: khi cần lương thực thì lùng sục để giành lấy, nhưng sau khi có được lại phung phí, đến nỗi khi không còn lương thực để cướp đoạt thì tự suy yếu tan rã, điển hình trong số đó là Viên Thuật. Trong khi nhiều quân phiệt chỉ dùng chính sách cướp đoạt của nông dân thì chính sách đồn điền của Tào Tháo đã góp phần khôi phục nông nghiệp bị tàn phá, vừa giải quyết đời sống nông dân, vừa đảm bảo lương thực cho quân đội của ông. Chính điều đó là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chiến thắng của Tào Tháo ở Trung Nguyên.

Đông Ngô, Thục Hán sở dĩ cũng có đủ thực lực, giữ được thế cân bằng với Tào Tháo và con cháu ông sau này nhờ sớm học tập chính sách phát triển đồn điền với mô hình tương tự của Tào Tháo trong khu vực mà họ quản lý.

Tuy nhiên, cũng bởi Tào Tháo đi theo con đường bá đạo, trọng lợi hơn trọng đức; dùng người cốt hiệu quả không tính đến phẩm chất đã gây ra những “tác dụng phụ” có liên hệ mật thiết đến sự suy vong nhanh chóng của triều đại Tào Ngụy sau này. Mầm mống quyền lực của cha con họ Tư Mã nhen nhóm, không lâu sau đã lấy ngôi của con cháu Tào Tháo như cách ông đã dần dần lấy ngôi của nhà Hán. Nhà Tấn thống nhất được toàn thiên hạ sau này, phần lớn là thụ hưởng cơ nghiệp mà Tào Tháo đã xây dựng.

Trong lịch sử gần 2000 năm qua, hình tượng về Tào Tháo vẫn là một chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử Trung Quốc, hầu hết đều bị ảnh hưởng tiêu cực do tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa”. Chính vì thế, hình ảnh về ông không được người đời ưa thích và thường được mang ra làm biểu tượng cho sự dối trá, vô liêm sỉ, bất nhân, bất nghĩa.

Tuy nhiên, kể từ thế kỷ 20, các học giả đã có nhìn nhận khác khách quan hơn về Tào Tháo. Những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc như Lỗ Tấn hay Quách Mạt Nhược đều đánh giá Tào Tháo là anh hùng. Nhà lãnh đạo ĐCS Trung Quốc Mao Trạch Đông từng đánh giá Tào Tháo là vị đế vương mà ông khâm phục nhất, gọi ông là “vua của các vua”.

Trong “Tam Quốc Chí” cũng đã từng ca ngợi Tào Tháo” “Phi thường chi nhân, siêu thế chi kiệt” (tạm dịch: Người phi thường, là người tài giỏi xuất chúng). Một số tài liệu chính sử còn cho biết ông là một người có gan có chí, quý trọng nhân tài và cực kỳ quyết đoán cùng sự kiên nghị trong tất cả mọi việc.

Nhắc đến Tào Tháo, ngoài việc ông là một người tài giỏi trong lĩnh vực chính trị, quân sự thì ông còn là một nhà thơ xuất sắc. Ông và hai con trai Tào Phi, Tào Thực được đời sau gọi là Tam Tào, cùng với nhóm Kiến An thất tử và nữ sĩ Thái Diễm hình thành nên trào lưu mới trong văn học thời Hán mạt, gọi chung là Kiến An phong cốt.

Ngoài ra, với tài năng và mưu lược hơn người của mình, Tào Tháo đã để lại cho đời những câu nói vô cùng có giá trị, không chỉ là “kim chỉ nam” giúp ông đạt được những thành công lớn trong cuộc đời mình mà những câu nói ấy còn được lưu truyền và để lại rất nhiều bài học cho hậu thế sau này.

1. “Thà ta phụ thiên hạ chứ không để thiên hạ phụ ta.”

Đây dường như chính là triết lý sống cả đời của Tào Tháo. Chính sự đa nghi khiến ông không thể tin vào bất kỳ ai ngoài bản thân mình. Với Tào Tháo, bất kỳ ai bên cạnh cũng đều có thể quay lưng, ‘trở mặt’ với mình, nên ông càng sống ngờ vực và nắm thế chủ động trong mọi việc. Câu nói này nhắc nhở chúng ta đừng quá tin người mà hãy sống có chút đề phòng, hoài nghi để đề phòng người khác lừa gạt, phản bội.

2. “Kẻ nhận sai chẳng khác nào nói mình nhu nhược.”

Câu nói này dạy chúng ta rằng, con người phải có bản lĩnh, tin vào tài năng và quyết định của mình. Dù kết quả có như thế nào, cũng tuyệt đối không phủ nhận những gì mình đã làm được.

3. “Tại sao lòng bàn chân lại trắng hơn mặt và tay?”

Ở đây, Tào Tháo muốn nói rằng, đừng bao giờ phơi hết ‘ruột gan’ của mình cho người khác biết để họ thấu rõ tâm can của mình. Người thông minh là người biết giấu đi những điều cần giấu.

4. “Thắng bại là chuyện thường tình của binh gia.”

Câu khẳng định này thức tỉnh những người binh lính không được ngủ quên trên chiến thắng, cũng đừng chết vì thất bại. Hãy rút ra bài học từ những chiến thắng và thất bại để có những bước đi khôn ngoan hơn.

5. “Ta nhẹ nhàng đi cũng như khi ta nhẹ nhàng đến, ta vẫy tay chào không một chút vấn vương.”

Hãy học cách đón nhận và buông bỏ đúng lúc, tuyệt đối không để tình cảm chi phối lý trí quá nhiều, vì điều đó sẽ làm hỏng việc lớn.

6. “Không tin thì không dùng, đã dùng là phải tin.”

Nổi tiếng là một nhà chính trị – quân sự rất giỏi trong việc dùng người, đây chính là một trong những thuật dùng người giúp Tào Tháo thành công trong sự nghiệp của mình. Trong bất cứ việc gì, một khi đã chọn thì phải có lòng tin. Lòng tin có sức mạnh rất lớn đối với cuộc đời mỗi người, thậm chí có thể quyết định kết quả thắng hay bại.

7. “Phàm những chuyện đại sự trong thiên hạ nên về nhà hỏi vợ, vợ bảo sao cứ làm ngược lại. Ắt sẽ thành công.”

Đối với Tào Tháo, phụ nữ luôn rất cảm tính. Trước những việc quan trọng, họ thường sẽ đắn đo rất nhiều về những rủi ro có thể ập đến và đó cũng thường là tâm lý chung của con người. Vậy nên, với chuyện nhà binh, càng đi ngược lại với cảm tính thì họ càng dễ chiến thắng. Bởi vì chỉ có vượt qua được nỗi sợ hãi của con người để chiến đấu, thì mới có thể nắm chắc chiến thắng trong tay.

8. “Mỹ nhân trong thiên hạ đều tầm thường với ta, duy nhất chỉ có vợ của kẻ thù làm ta thích thú.”

Câu nói này hàm ý rằng, Tào Tháo muốn có được những thứ kẻ thù có và nắm thóp được điểm yếu của kẻ thù để tấn công.

9. “Biết sai sửa sai, nhưng không bao giờ nhận mình sai.”

Đối với Tào Tháo, nhận sai chính là nhu nhược, vì thế không được nhận mình sai về những điều mình đã làm. Nhưng bên cạnh đó, bản thân phải luôn biết điều gì khiến mình thất bại để lấy làm bài học lớn, khắc cốt ghi tâm và sửa sai để không đi vào vết xe đổ lần nữa.

10. “Can đảm cẩn trọng, dám nghĩ dám làm mới có thể thành tựu sự nghiệp.”

Nam nhi chí lớn nhất định phải có bản lĩnh và can đảm, nhưng không được vồ vập mà phải điềm tĩnh, cẩn trọng. Có như vậy mới tạo nên được những thành công và thành tựu trong sự nghiệp.

11. “Không được khích nộ sẽ làm giảm trí tuệ, không được oán hận sẽ giảm đi một nửa sức mạnh.”

Tào Tháo: Gian hùng hay anh hùng?

Tào Tháo là kẻ gian hùng hay là người anh hùng? Quả vậy, cho tới nay, các chuyên gia về Tam Quốc của Trung Quốc vẫn còn đang “bất phân thắng bại” ở đề tài này, cho dù dường như các bên đều thừa nhận Tào Tháo là một vĩ nhân lỗi lạc. Với lòng hâm mộ tác phẩm, chúng tôi xin được lạm bàn đôi nét, rất mong được các bậc đại khoa chỉ giáo.

1.

Tam Quốc bao quát cả một thời kỳ lịch sử gần một thế kỷ (từ 184 đến 280 sau công nguyên), tại đó, ba nước Ngụy, Thục, Ngô đã hình thành thế chân vạc trong quá trình đánh dẹp cuộc khởi nghĩa nông dân và trong cuộc chiến tranh giữa các chư hầu với nhau. Bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa của ba anh em Trương Giốc mà lịch sử gọi là cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân (Khăn vàng) cho tới khi Tư Mã Viêm, cháu tướng Ngụy Tư Mã Ý, thống nhất được Trung Quốc để lập nên nhà Tấn và chấm dứt cục diện tam quốc phân tranh.

Tác giả La Quán Trung viết Tam Quốc với quan điểm “chính thống” phò Hán Yên Lưu mà tư tưởng chủ yếu được hình thành do ảnh hưởng của học thuyết Khổng giáo kết hợp với vài yếu tố của Phật giáo và  Đạo giáo. Với ông, họ Tào không phải dòng dõi họ Lưu (Hán) nên được xem là đối nghịch với Lưu Bị và người dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương. Đứng trên quan điểm tiến bộ, La Quán Trung nói lên nguyện vọng của nhân dân được sống trong hòa bình và dưới triều của một ông vua anh minh. Vì thế, đương nhiên kẻ đối nghịch là Tào Tháo phải được mô tả như một tên gian thần.

Tháo khôn ranh từ nhỏ. Vốn nghịch ngợm nên hay bị người chú mách với cha là Tào Tung. Vì thế, Tháo nghĩ ra ngay một kế để lừa chú. Thấy chú đến, Tháo giả vờ nằm quay ra đất như kẻ bị trúng phong. Chú Tháo thấy vậy sợ quá liền chạy vào báo với Tào Tung. Tung ra thấy con không làm sao bèn hỏi:
– Chú mày nói trúng phong, khỏi rồi à?
– Thưa cha, từ nhỏ có bao giờ con bị bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú ghét con mới đặt điều ra thế.
Từ đấy, Tào Tung tưởng thật và không bao giờ tin người em khi ông này mách tội Tào Tháo nữa.

Người ta đã quá quen thuộc với các giai thoại về Tào Tháo với châm ngôn “chết người”: “Thà ta phụ người còn hơn để người phụ ta”, chẳng hạn, Tháo giết cả nhà Lã Bá Sa, mượn đầu Vương Hậu để yên bụng quân, giả vờ ngủ say để rồi giết cả lính hầu… Trong cái “bảy thực ba hư” của Tam Quốc, tác giả mượn Tào Tháo để mô tả một cách khái quát và sống động tính gian hùng, đa nghi, tàn ác, xảo quyệt của giai cấp thống trị đương thời và của nhiều thời đại.

Người đời Tấn là Lục Cơ có nói: “Tuy công lao của Tào Tháo đầy khắp cả cõi Trung Hoa, nhưng ông ta lại tàn ác vô cùng, dân chúng ai ai cũng oán ghét”.
Tào Tháo kỳ thị người hiểu rõ gan ruột mình mà Dương Tu, Tuân Úc, sau này đều là các nạn nhân. La Quán Trung đã dành trọn ác cảm với họ Tào qua bài hịch hùng hồn do Trần Lâm soạn khi Viên Thiệu chuẩn bị khởi binh đánh Tào Tháo… Phải chăng với tư tưởng chủ đạo của Tam Quốc, ở Tào Tháo, chữ nhân – yếu tố đầu tiên của Ngũ thường, được xem là thiếu hụt hơn hết so với các mặt khác. Điều này không khó giải thích khi chứng kiến ác cảm với ông ta của nhiều thế hệ người đọc. Nhưng…

2.

Dù cho tác giả có mô tả Tào Tháo như một kẻ gian thần ác độc, một mẫu nhân vật có thể khiến người đời phải khiếp đảm khi nghĩ đến ông ta, song điều nghịch lý lại ở chỗ La Quán Trung vẫn cứ phải dùng những lời lẽ tốt đẹp nhất để nói về Tào Tháo, kể cả việc viết nên rất nhiều chi tiết xúc động lòng người để mô tả tài năng xuất chúng và cả lối hành xử rất quân tử của con người ấy.

Ngay khi xuất hiện lần thứ nhất, tác giả đã đặc biệt ưu ái Tào Tháo rồi: “… Bỗng thấy một toán binh mã kéo toàn cờ đỏ xông ra chặn đường. Một tướng đi đầu mình cao bẩy thước, mắt nhỏ râu dài. Tướng ấy là ai? Tức là quan kỵ đô úy, người ở Tiêu quận nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự là Mạnh Đức”. La Quán Trung kể tiếp: Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền bảo Tháo rằng:
– Thiên hạ sắp loạn, trừ phi có tay tài giỏi hơn đời thì mới mong dẹp được loạn. Làm được như thế chắc chỉ có bác.
Hà Ngung ở Nam Dương, một hôm trông thấy Tháo đi qua cũng tán tụng rằng:
– Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chỉ có người này!

Gian hùng mà không phải gian thần (bản dịch của Phan Kế Bính – Bùi Kỷ). Đó mới là lối miêu tả qua tướng mạo nhìn người của chính tác giả với nhân vật trung tâm của mình. Tuy thế, phải đến lúc mô tả lối hành xử khi đã cầm quân của họ Tào, ngòi bút của La Quán Trung mới thể hiện được một cách xuất sắc điều ông muốn nói.

Ngay từ khi mới ra làm quan, Tào Tháo nổi bật tính thanh liêm và luôn tôn trọng luật pháp với phương châm “luật pháp bất vị thân” nên rất được dân nể sợ. Là người hết sức coi trọng tài năng, bất kể “quý – tiện”, Tào Tháo tỏ ra có quan điểm tiến bộ nhất trong đám quan lại hồi đó. Cũng chỉ một mình Tào Tháo xung phong vào cung hành thích tên gian tặc Đổng Trác, việc không thành, bỏ trốn bị Trần Cung bắt được, Tháo dõng dạc:
– Ông cha ta đời đời ăn lộc nhà Hán, nếu ta không nghĩ cách báo quốc, có khác chi giống muông thú. Nay việc không xong, cũng là lòng Trời!

Tào Tháo nổi bật nhất so với mọi tướng lĩnh cùng thời về cách hiểu và dùng người. Ông là người anh hùng nên cũng trọng người anh hùng và chuyện “Uống rượu luận anh hùng” của Tam Quốc chỉ là một ví dụ. Hết sức coi trọng tài năng và giữ tín nghĩa, đấy cũng là phẩm chất số một của họ Tào. Chả thế mà chưa có một tướng nào bỏ Tào Tháo mà đi. Hãy nghe Tào Hồng nói với ông khi thấy Tào Công chẳng muốn dùng ngựa của mình để chạy thoát thân lúc bị giặc vây hãm – “Ta chạy đi rồi giặc sẽ giết ngươi mất”.
– Ông đi đi! Thiên hạ có thể không có tôi nhưng không thể không có ông!
Biết Quan Công là danh tướng, Tào Tháo đãi cực hậu: Thượng mã đề kim, hạ mã đề ngân (lên ngựa tặng vàng, xuống ngựa tặng bạc); năm ngày một tiệc lớn, ba ngày một tiệc nhỏ.
Biết Trương Phi tài giỏi, bảo các tướng ghi tên Dực Đức vào vạt áo, sau gặp không được khinh địch. Thấy Tử Long xuất chúng, Tào Tháo sai Tào Hồng cầm lệnh tiễn phi ngựa xuống truyền các tướng sĩ không được bắn trộm, Tử Long cũng thoát hiểm từ đó…

Màn ảnh nhỏ mới đây đã cho người xem thấy rõ hơn về Tào Tháo. Ông ra đón Quan Công với con mắt thán phục sâu sắc, quỳ xuống đất vái kẻ hàng tướng. Trận Quan Độ, khi hai tướng của Viên Thiệu là Trương Cáp, Cao Lãm tới doanh trại, dù tả hữu khuyên nên đề phòng, Tào Tháo vẫn tự mình bước ra tận nơi vái chào. Có lẽ vì thế các tướng giỏi như Từ Hoảng, Trương Liêu, Vân Trường, Trương Cáp… lần lượt về với Tào Tháo.

3.

Đối với các quan văn, những mưu sĩ, tượng trưng cho trí tuệ của nghệ thuật quân sự Trung Hoa một thời, Tào Tháo bộc lộ sự trân trọng từ phía người trong cuộc. Trước tiên, chính ông cũng là một mưu sĩ cực giỏi. Tào Tháo tự đi tìm người hiền mà không như Lưu Bị phải “Tam cố thảo lư” để vời Khổng Minh theo giới thiệu của Tư Mã Huy, hay Tôn Quyền dùng Trương Chiêu theo lời ủy thác lúc lâm chung của anh là Tôn Sách và giới thiệu của Chu Du. Với chú cháu Tuân Du, Tuân Úc, với Trình Dục, Đổng Chiêu… đều như thế.

Chỉ cần một hồi, miêu tả trận đại chiến Quan Độ, người xem đã thấy rõ thế nào là lời khen tặng “Thừa tướng dụng binh như thần” của tướng lĩnh dành cho Tào Tháo.

Ông sáng suốt đã đành, nhưng cũng là người duy nhất ở Tam Quốc không bao giờ kết thúc trận đánh ngay sau khi còn có thể, dù chỉ là một hy vọng nhỏ, để chuyển bại thành thắng. Xem Tam Quốc, chỉ thấy mỗi Tào Tháo, trong tên đạn bời bời ở sông Vị, lửa thiêu thành Bộc Dương hay giữa lúc mất áo, trụi râu vẫn đủ sức chuyển bại thành thắng ngay trong khoảnh khắc bằng những quyết đoán sáng suốt. Vì thế, câu nói “Không ngờ lại mắc mưu Tào Tháo” chẳng phải của riêng một ai ở Tam Quốc.

Tháo không kịp xỏ giày, chân không ra đón Hứa Du, khóc tiễn Trần Cung, lưu luyến Thẩm Phối, Thư Thụ, tế lễ Điển Vi và cả khi tế Viên Thiệu. Tào Tháo dùng Trần Lâm mặc dù đó chính là người viết lời hịch sỉ nhục ba đời nhà mình. Trên đường đi đánh Viên Hy, Viên Thượng vẫn chăm sóc Quách Gia lâm bệnh, khi Hạ Hầu Đôn bị mất mắt đã vào tận giường hỏi thăm…

Tháo đặc biệt ghét bọn bán chúa cầu vinh mà việc chém Miêu Trạch là một ví dụ. Ở vào thời đại của mình, lịch sử đã ghi rằng ba cha con Tào Tháo, Tào Phi và Tào Thực đều là những nhà thơ có tên tuổi. Tào Tháo tinh thông cầm-kỳ-thi-họa, thơ phú ngay cả trong lúc gian nan, hài hước khi thua trận (đường Hoa Dung, Xích Bích), giỏi đàn nơi doanh trại. Tào Tháo là người sành kiến trúc: từ việc lớn như “duyệt” phương án xây đền Đồng Tước cho tới tiểu tiết về cái cổng của vườn hoa nơi chính điện. Đi đánh Mặc Đặc xa xôi, trên đường vẫn ghé lại thăm nhà cố sử gia Sái Ung rồi ra tận bia mộ đọc văn bia với một chi tiết cực kỳ sâu sắc của trí tuệ Tào Tháo, liệu đã có ai bằng?

Xưa nay ai cũng hiểu rằng làm một người anh hùng thời loạn là việc cực kỳ khó.
Càng khó hơn, nếu người ấy vẫn giữ được thân và lại yên thiên hạ. Sách Tam Quốc kể rằng năm Kiến An thứ 15, mùa xuân, Tào Tháo ở Nghiệp Quận bày tiệc mừng đền Đồng Tước. Đêm ấy, các quan văn có tiếng trong triều như Trần Lâm, Vương Xán, Chung Do, Vương Lãng đã làm thơ để ca ngợi công đức Thừa tướng. Ông xem qua rồi trả lời bằng đoạn tự bạch nổi tiếng sau: “Các ông văn hay khen ta quá lời. Ta vốn là người ngu lâu, khi xưa may mà đỗ Hiếu Liêm. Sau gặp lúc thiên hạ đại loạn, có dựng cái nhà đọc sách cách phía Đông của Tiêu thành năm mươi dặm, lòng những muốn mùa xuân mùa hạ đọc sách, mùa thu mùa đông săn bắn, đợi thiên hạ thái bình mới ra làm quan. Không ngờ triều đình gọi ta ra, phong làm Điển quân Hiệu úy, ta mới đổi nguyện vọng xưa, quay ra giúp nước mong dẹp giặc lập công; chỉ mong sau khi chết đi, trên mộ được ghi mấy chữ “Đây là mộ Tào hầu, cố chinh Tây tướng quân” cũng đã là mãn nguyện. Ta vẫn còn nhớ đến lời đức Khổng Tử khen đức lớn của vua Văn Vương đời nhà Chu, lời xưa ta vẫn canh cánh bên lòng. Nhưng nếu lại muốn cho ta bỏ binh quyền tất sẽ bị kẻ khác hãm hại. Ta mà bị hại thì nhà nước tất sẽ lâm nguy. Bởi thế ta không thể mến cái tiếng hão để chuốc lấy vạ thật. Chắc các ông chưa ai hiểu hết bụng ta”…

Cách đây chừng ba chục năm, trên văn đàn Trung Quốc đã xuất hiện một khuynh hướng xem xét lại sự đánh giá với các nhân vật trong Tam Quốc. Theo đó, Lưu Bị vốn có đức nhưng kém tài, lại nhu nhược và giả dối. Khổng Minh tài năng siêu tuyệt, nhưng lại chỉ là nhân vật mang nét huyền thoại với tài hú gió gọi mưa, biết phép độn giáp dâng sao, biết chế ra trâu gỗ, ngựa gỗ và chính ông đã cùng Lưu Bị cố tình kéo dài cuộc nội chiến đẫm máu.

Chỉ có Tào Tháo với tài năng và cả những mặt hạn chế đã trực tiếp góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển của lịch sử Trung Hoa, đồng thời có nhiều công lao trong những cải cách xã hội cho đất Trung nguyên vào thời ấy. Được biết, khuynh hướng nói trên đã được cố nhà văn Quách Mạt Nhược ủng hộ và đề cao. Phải chăng vì thế, bộ phim “Tam Quốc diễn nghĩa” mà chúng ta đã xem là một tác phẩm điện ảnh với những sáng tạo mới xuất sắc tiếp theo

Đã có nhiều cuốn sách bình chú, kiến giảiTam quốc diễn nghĩa, nhưng ít người bình được đến hợp lý, thuyết phục mà thú vị như Lã Tư Miễn. Bằng vốn kiến thức uyên bác của một sử gia, ông gần như lật lại nhiều tích truyện tưởng đã được mặc định trong tác phẩm của La Quán Trung.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị
Cuốn Tam Quốc sử thoại của Lã Tư Miễn.

“Bây giờ tôi phải thanh minh thay cho một vị tuyệt đại anh hùng. Đó chính là Ngụy Vũ đế”. Câu mở đầu cho chương 12 trong cuốn Tam quốc sử thoại (Châu Hải Đường dịch, NXB Hội Nhà văn), Lã Tư Miễn đã viết như vậy.

Cách viết có vẻ khiêu khích này đã chính thức làm cho nhiều fan cứng của Tam Quốc diễn nghĩa cảm thấy khó chấp nhận. Xưa nay, trong bảng phong thần của Tam Quốc, Tào Tháo được định danh là gian thần, điều này gần như không thể chối cãi.

Ngay Nam Cao, trong tác phẩm Đôi mắt được đưa vào giảng dạy ở nhà trường cũng không tránh khỏi định kiến ấy. Qua góc nhìn của nhân vật chính tên Hoàng: Tào Tháo thừa tài năng, đa mưu túc trí nhưng vẫn không phải là anh hùng chân chính. Vậy mới có câu cảm thán đậm mùi suồng sã: “Tài thật, tài đến thế là cùng! Tiên sư anh Tào Tháo”.

Để bắt đầu chiêu tuyết (rửa sạch oan ức) cho Tào Tháo, sử gia họ Lã đã đưa ra rất nhiều bằng chứng thuyết phục. Đầu tiên, ông truy tìm cách nói “gian thần” từ đâu mà ra?

“Tất nhiên đó là chịu ảnh hưởng của Diễn nghĩa, song Diễn nghĩa cũng ắt có căn cứ của nó. Tiền thân của tiểu thuyết diễn nghĩa là thuyết thư (kể chuyện trong sách), người kể chuyện chẳng thể có kiến giải đặc biệt nào cả, chẳng qua chỉ là chiều theo tâm lý của xã hội. Hơn nữa một kiến giải, nếu không phù hợp với tâm lý của đa số mọi người, cũng nhất định không thể lưu truyền được rộng rãi như thế”.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị
Tào Tháo trong lịch sử là một đại anh hùng, theo Lã Tư Miễn.

Kế đến, bằng vào những tư liệu lịch sử (chứ không phải chuyện thuyết thư), Lã Tư Miễn lần lượt ném ra nhiều thông tin chấn động: “Ngụy Vũ đế rốt cuộc là người như thế nào? Chỉ cần xem bản sắc lệnh mà ông ban ra vào ngày Kỷ Hợi, tháng 12, năm Kiến An thứ 15 (210) là có thể biết rõ. Ngụy Vũ đế vào năm 20 tuổi được cử Hiếu liêm. Ông nói: ‘Ta vào khi ấy, vì vốn chẳng phải người có danh tiếng gì, sợ rằng bị người đương thời coi rẻ, nên rất mong muốn được làm một viên quận thú tốt’. Đích xác, sau này ông làm tới chức Tế Nam tướng, có nhiều chính tích, nhưng vì đắc tội với hoạn quan, lại bị cường hào oán hận, sợ rằng vì thế mà chuốc lấy tai họa cho gia đình, nên đã thác bệnh xin từ chức”. Khi đó Tào Tháo mới chừng 30 tuổi.

Về ẩn cư, Tào Tháo không nản lòng thoái chí, mà kiên nhẫn đọc sách, luyện võ, chờ thời. Sau đó, khi được tái nhập quan trường, ông nói: “Ta vào lúc bấy giờ, lại mong mỏi được lập công cho nước nhà, sau này chết đi trên mộ dựng một tấm bia, đề là: Mộ của Tào hầu – Chinh Tây tướng quân nhà Hán”.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị
Tào Tháo của Lã Tư Miễn rất khác so với Tào Tháo trong sách La Quán Trung.

Trong truyện Tam Quốc, người ta sở dĩ vu cho Tào Tháo tội bất trung muốn soán ngôi nhà Hán, cũng là nguồn gốc sinh ra cái định danh “gian thần”, theo Lã Tư Miễn đều là dựa vào những thông tin không chính xác.

Có thể kể đến: “Năm Kiến An thứ 17 (212) bọn Đổng Chiêu nói, Tào Tháo nên được tấn thăng nên tước công, và đem chuyện này bàn với Tuân Úc, Tuân Úc nói Ngụy Vũ đế vốn là khởi nghĩa quân để khuông phù cho nhà Hán, chẳng nên làm vậy. Ngụy Vũ đế vì thế mà không thể yên được trong lòng. Tuân Úc lo buồn mà chết. Một năm sau cái chết của Tuân Úc, Ngụy Vũ đế bèn được thăng lên làm Ngụy công. Câu này rõ ràng là câu thêu dệt. Nếu Ngụy Vũ đế thật sự muốn thoán ngôi nhà Hán thì có sợ gì Tuân Úc? Hơn nữa, tiến thăng làm Ngụy công thì có liên quan gì đến việc thoán ngôi nhà Hán?”.

Ví dụ thứ hai, Lã Tư Miễn kể lại năm Kiến An thứ 24 (219), Tôn Quyền muốn đánh Kinh Châu, dâng thư xưng thần, lại nói đến thiên mệnh rằng Tào Tháo nên làm Hoàng đế. Tào Tháo đưa thư cho mọi người xem rồi bảo: Thằng nhóc này lại muốn ta ngồi xổm trên lò lửa ư?

Chưa hết, ở lời chú trong Tam Quốc chí, dẫn sách Ngụy thị Xuân Thu nói: Hạ Hầu Đôn nói với Tào Tháo rằng: Từ xưa đến nay, những bậc có thể vì dân trừ hại, được nhân dân hướng về, thì chính là chủ của nhân dân. Công lao và đức hạnh của ngài đều rất lớn, nên làm Hoàng đế”.

Tào Tháo trả lời: “Nếu như thiên mệnh ở ta, thì ta là Chu Văn vương vậy” (Chu Văn Vương là người có được hai phần ba thiên hạ mà vẫn có thể phụng sự nhà Ân).

Tất cả chuyện này cho thấy rõ rằng Tào Tháo không có ý thoán ngôi nhà Hán.

6 câu nói bất hủ của Tào Tháo sau 2000 năm vẫn nguyên giá trị
Trận Xích Bích của La Quán Trung và phiên bản điện ảnh của Ngô Vũ Sâm đều khác trận Xích Bích trong lịch sử.

Những ví dụ như vậy còn dài, và chân dung Tào Tháo trong sử thoại, quả thật là một hình ảnh đảo ngược với Tào Tháo của Tam quốc diễn nghĩa.

Tam Quốc sử thoại là tác phẩm được Lã Tư Miễn viết cho các bạn trẻ yêu thích lịch sử, theo đề nghị của học trò mình là Dương Khoan. Những câu chuyện trong Tam Quốc diễn nghĩa hầu như đều được ông lật lại, phân tích, đối chiếu, so sánh với các nguồn tư liệu lịch sử và đưa ra một chân tướng gần nhất với sự thật.

Bố cục sách theo kiểu chương hồi, hé lộ không ít những câu chuyện thú vị khác, ví như chân tướng của trận Xích Bích, thanh minh cho Ngụy Diên hay là những chuyện hư hư thực thực quanh mức độ ảnh hưởng của các hoạn quan lên các bậc vua chúa trong lịch sử…